Physical Address

304 North Cardinal St.
Dorchester Center, MA 02124

Chuyện chồng và con của Lý Chiêu Hoàng

trị vì triều đại bão tố

Lý Chiêu Hoàng tên thật là Lý Phất Kim (sau đổi là Lý Thiện Hinh), được sắc phong công chúa, là con gái thứ của vua Lý Huệ Tông và hoàng hậu Trần Thị Dung.

Bạn đang xem: Lý chiêu hoàng là con của ai

Theo lời kể của bản thân, bà sinh vào tháng 9 năm Tân Mão (1218), nội dung bài văn tế thờ tích công chúa nói rõ hơn về ngày sinh là ngày 16 đến ngày đoạn viết: “còn thu chín trăng nữa. Cao đế/ ngọc sai chúa xuất hiện họ Lý”, nên “thu” có nghĩa là mùa thu, tháng chín; còn “nguyệt thượng” là ngày 16 giữa tháng, khi trăng tròn lên cao nhất và sáng nhất.

Tháng 10 năm Nhâm Thân (1224), sau một thời gian triều đình thao túng khống chế, anh em bà hoàng Trần Thị Dung do Trần Thủ Độ cầm đầu đã lợi dụng lúc Lý Huệ Tông lâm bệnh. để trở nên tồi tệ hơn. ép nhà vua phải xuống ngôi lập công chúa làm thái tử rồi truyền ngôi cho ngôi vị kỷ nguyên chương chính nghĩa (nghĩa là đạo trong sáng).

Sau đó, vua xuất gia tu hành tại một ngôi chùa chân chánh ở trung tâm kinh thành Thăng Long với pháp hiệu là đại sư Huệ Quang. Đó chính là bước ngoặt của câu chuyện đã đẩy cô bé 8 tuổi Lý Phất Kim lên chính trường vào thời kỳ nhà Lý đang suy tàn tột độ.

Hoàng hậu lên ngôi khi còn quá trẻ nên Thái hậu Trần Thị Dung lên ngôi. kể từ đó, những người thân của ông được đưa vào để ngày càng nắm giữ quyền lực trong quân đội và các vị trí quan trọng trong triều đình.

Khi đó, Trần Thủ Độ giữ chức điện tiền, chỉ huy việc nối ngôi nối ngôi cho gia tộc, dưới sự lãnh đạo của ông, người em họ Trần Canh 8 tuổi được đưa vào cung làm trưởng. Trong vai một cận vệ, bạn có nhiệm vụ phục vụ Hoàng đế.

Vì bằng tuổi nhau nên hoàng đế chỉ thích ở bên trò chuyện đùa giỡn với cảnh tượng rất vui vẻ và gần gũi. Coi đây là cơ hội ngàn năm hiếm có, Trần Thủ Độ đã bàn với em họ là Hoàng thái hậu Trần Thị Dung thực hiện một cuộc “đảo chính triều đình” bằng một nước đi táo bạo bằng cách đưa toàn bộ gia đình và người thân của mình đến. sự cấm đoán cung điện.

Rồi Trần Thủ Độ sai quân khóa chặt các cửa thành, cửa cung, cắt cử người canh giữ nghiêm ngặt, các quan xin vào yết kiến ​​vua nhưng đều không được.

p >

Khi hoàng cung bị phong tỏa, quần thần trong triều không có phản ứng gì vì bọn họ nắm giữ hoàng hậu và thái hậu làm con tin trong tay, ai dám động. sau đó, Trần Thủ Độ liền tâu rằng: “bệ hạ có chồng”.

Các quan tuân mệnh, xin chọn ngày cử hành. do đó Trần Thủ Độ đã tạo ra một cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Canh; từ trò chơi trẻ con đến chuyện tình yêu, rồi đàn bà nhường ngôi cho chồng cũng là lẽ phải;

Triều chính được chuyển giao cho họ Trần với sự kiện là ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng xuống nhường ngôi cho Trần Canh, và ngày 11 tháng 12 năm đó, A. lễ hội lớn được tổ chức trong cung điện thiên sau đó an xuống ngôi, cởi bỏ hoàng bào và chính thức khuyên Trần canh lên ngôi.

Trần Canh tiến vào long cung, đội mũ bình yên, mặc long bào cử hành lễ đăng quang, xưng đế, đặt niên hiệu là kiến ​​trung, trở thành vị vua đầu tiên của mái nhà.

Điều này cũng khiến Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim) và Trần Thái Tông (Trần Canh) trở thành cặp vợ chồng duy nhất trong lịch sử mà cả hai đều làm vua. sau khi nhường ngôi cho chồng, ly chiêu hoàng lên làm hoàng hậu.

“Bính Tuất, năm thứ 2 [1266], (Tống Bảo Khánh năm thứ 2) mùa xuân, tháng 1, sách tôn hoàng hậu làm hoàng hậu, đổi gọi là thánh nhiệm.”

người chồng đầu tiên và đứa con trai xấu số

Xem thêm:  Những cặp đôi người ấy là ai giờ ra sao

Người chồng thứ nhất của Lý Chiêu Hoàng là Trần Thái Tông, tên thật là Trần Canh, ngoài ra còn có tên khác là Trần Bộ (sử chép tên thường gọi của Lý Chiêu Hoàng là sanh canh theo tên một loài cá do dòng họ của ông đang khỏa thân). ban đầu là ngư ông, sau đọc là cảnh).

Trần Thái Tông sinh ngày 16 tháng 6 âm lịch, năm Tân Dậu (1218) tại làng Thiết Mô, miếu trời (nay là xã Tú Mô, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), quan thứ sử. chịu trách nhiệm phục vụ hoàng đế.

Tháng 12 năm Ất dậu (1225) ông được vợ nhường ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của nhà Trần, trị vì 33 năm (1225-1258). Ngày 24 tháng 2 âm lịch (1258), Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Pan, làm vua được 19 năm (1258-1277) và mất vào ngày mồng 1 tháng Giêng. Tháng 4 năm Đinh Sửu (1277). 59 năm.

Đọc thêm: Nguoi yeu cua kim soo hyun la ai

Trần Thái Tông là vị vua tài giỏi, đức độ và am hiểu Phật giáo, được sử sách ca ngợi nhưng cũng bị phê phán vì những hạn chế nhất định dưới góc độ Nho giáo, đặc biệt là việc quận lấy người khác, lấy chị dâu làm vợ. vợ anh thậm chí còn chỉ trích công việc tôn giáo của anh…

Sách Việt sử lược viết: “vua là người nhân từ, có đức đế vương, dựng nên chế độ, chương điển văn hiến đáng khen, nhưng chỉ vì tam quốc loạn lạc, nhiều tệ nạn trong căn phòng của nơi…

thái tôn vương thuở nhỏ tà dâm, tất cả đều do đậu vận xui; Mãi đến mấy năm sau, ông mới chú tâm học hành, tiến bộ rất nhiều, nghiên cứu sâu hơn về kinh điển kinh điển, làm sách “nhốt trong rừng” mê phong cảnh núi non, coi sống chết như nhau. , tuy hơi giống đạo Phật, không hư mà ý chí rộng sâu, nên nhường ngôi như cởi giày rách.”

Sách Đại việt sử ký toàn thư nhận xét: “vua độ lượng với thần dân, đế vương đông, nên tạo dựng được đại nghiệp, thiết lập kỷ cương, chế độ mái nhà thật tuyệt vời. .tuy nhiên, việc hoạch định quốc sự đều do Trần Thủ Độ phụ trách, trong phòng còn nhiều chuyện đáng xấu hổ.”

Những điều mà sử sách cho là đáng xấu hổ có liên quan đến việc Thái hậu bị Hoàng Thái hậu buộc phải phế bỏ ngôi vị do không thể sinh con, rồi lấy chị dâu – đọc là vợ, sau đó đưa cô ấy trở lại. vợ tôi là thánh đường lấy tướng quân Lê Tấn (Lê phu Trần) để đền ơn đáp nghĩa.

Chiêu Thanh hoàng hậu bị truất vào tháng giêng năm Đinh dậu (1237), sử sách ghi như sau: “bà lập công chúa Thuận Thiên Lý, vợ của Hoài vương Liễu, em vua , khi phối ngẫu của hoàng hậu sử dụng một câu thần chú như một công chúa.

Thánh nhân lúc đó chưa có con, nhưng Thuận Thiên đã có 3 tháng quốc thọ. Trần Thủ Độ và công chúa Thiện Chi lén bàn với vua sau này nên phong họ làm phò tá, nên mới có chiếu” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Sở dĩ bà làm vợ Trần Thái Tông hơn 10 năm mà chưa sinh được con trai cho vua, Trần Thái sư thủ đô sợ vua không cho. có người thừa kế. bắt buộc nhà vua bằng cách nói: “Hoàng hậu mời các vị thánh làm vợ. hơn mười năm không sinh con thì làm sao có hi vọng nối ngôi, nhất định phải chọn hoàng hậu khác!”

thực ra thánh nhân đã từng sinh một lần đứa con đầu lòng và cũng là kết quả của một cuộc vợ chồng với vị vua của xứ sở, sinh năm (1233) gọi là trần trinh. có lẽ mừng sinh được con trai nên nhà vua lập ngay làm thái tử, nhưng người con trai này vừa chào đời không lâu đã qua đời.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư đặt vấn đề: “Khi sinh hoàng tử, phải ghi rõ ngày, tháng, năm sinh; khi tôi chết cũng vậy. cái này chỉ ghi lúc bà chết, có lẽ bà chết ngay sau khi sinh nên không ghi ngày tháng năm sinh.”

Xem thêm:  Quách Thành Danh tiết lộ cuộc sống hôn nhân với bà xã kém tuổi trên đất Mỹ

kết thúc có hậu của một tình yêu gượng ép

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất (1257-1258), có danh tướng Lê Tần lập nhiều chiến công, đặc biệt cứu vua Trần Thái Tông trong trận đánh diễn ra vào ngày 1/10/2018. giữa tháng 12 năm Đinh Tị (1257) vua đổi niên hiệu là Lê Phủ Trần.

Đại Việt sử kí toàn thư chép: “Tướng Nguyên mang thai đột ngột là trái luật tục, nhà vua tự mình làm đốc chiến, mang theo tên và đạn. Quan quân hơi lúng túng, nhà vua nhìn trái nhìn phải. phải rồi, chỉ có Lê phu trần (tức Lê Trần) một mình một ngựa, ra vào trận mạc, vẻ mặt bình thản như không.

Lúc bấy giờ có người khuyên vua dừng lại để chỉ huy trận chiến. bố vợ ra sức khuyên can vua: bây giờ bệ hạ chỉ giở trò! làm ơn tránh xa họ ra, làm sao bạn có thể tin người dễ dàng như vậy? lúc ấy tân vương rút quân, đậu ngự bên sông.

mái nhà phụ hỗ trợ phía sau. Quân giặc bắn loạn xạ, thị giả dùng ván thuyền che chở cho vua khỏi trúng tên giặc. thế giặc rất mạnh, [vua] phải lui về giữ sông Thiên vắng. phàm phụ theo vua bàn việc cơ mật, ít người biết…”

Sau khi đánh đuổi quân Nguyên Mông khỏi biên ải, nhà vua quyết định ban thưởng cho các quan của mình, nghĩ đến công lao to lớn của Lạc Tần, nhà vua không những phong tước cho ông mà còn gả vợ cũ cho ông. trong cung cấm sau một thời gian xuất gia.

Sử sách chép: “Mậu ngọ, năm thứ 8 (1258). Tháng giêng, mùa xuân. đem lão thái hậu Lý thị gả cho hoàng đế đại phu Lệ cha… vua nói với cha Trần rằng: nếu không có người nhà giúp đỡ, ta làm sao có được ngày hôm nay? gia đình bạn nên cố gắng làm việc. cùng nhau hoàn thành sự nghiệp” (khanh việt sử thông giang mục).

bị ép gả cho ngoại tộc, biết không thể từ chối, thánh trào đặt ra ba điều kiện: 1. Phải lập tức bãi bỏ lệnh bức hại, bức hại hoàng thất; 2. Các miếu thờ các vị hoàng đế, các vị công thần nhà Lý phải được bảo quản và chăm sóc tốt; 3.

Lê phủ Trần phải dời khỏi kinh thành. Sau khi được triều đình chấp nhận những điều kiện trên, thánh nữ mới đồng ý lấy Lê phu nhân, lúc này nàng đã 40 tuổi nhưng còn xuân sắc.

Xem thêm: Top 10 mỹ nhân đẹp nhất thế giới của năm 2021 | ELLE Man

Ở vùng Từ Sơn (Bắc Ninh ngày nay) từ bao đời nay có câu ca dao quở trách vua chúa đã cưới vợ cho người đầy tớ này:

Trách người chơi hoa rồi bẻ cành đem bán!

Tướng quân tên thật là Lê Tấn (còn gọi là Lê Tấn Trần), quê ở Ái Châu (nay là Thanh Hóa), ​​theo Lê Tấn Mèo Sương và Cổ mai bi ký: “Lệ Tần (tự là Lê Kính ), Tần là con Lê Khâm, cha Trần Đăng”; có tài liệu nói Lê Khâm là cháu vua Lê Đại Hành nhà Lê cũ.

Không rõ Lê phu Trần sinh năm mất, sử sách cũng không ghi rõ ông làm tướng khi nào và vào triều năm nào. Những dòng lịch sử đầu tiên nhắc đến Lê Phụ Trần là vào năm Tân Dậu (1250), ông được vua Trần Thái Tông phong chức Tham tri Đại thần, có nhiệm vụ can gián, phân xử việc tranh chấp.

Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược nước ta, Lê Phủ Trần tham chiến lập công lớn, sắp lên ngôi được trao chức Ngự sử rồi Chánh sứ đi sứ.

Tháng 6 năm Kỷ hợi (1259) giữ chức Thủy quân đại tướng quân; khi tuổi đã xế chiều, tháng 7 năm Giáp Tuất (1274), ông được phong làm Tăng trẻ, trừ cung dạy học cho thái tử.

Vì vậy, Lê phu trần không chỉ là một võ tướng, mà còn là một văn thần tài giỏi, có tài thao lược, đức độ nên được tin dùng làm thầy cho thái tử Khâm sai (sau này lên ngôi làm vua). xuyên âm điệu của con người). Cuộc đời làm quan của ông trải qua các triều Trần Thái Tông (1225 – 1258), Trần Thánh Tông (1258 – 1278) và Trần Nhân Tông (1279 – 1293).

Xem thêm:  CEO Hùng Đinh là ai? Triệu phú có tiếng trong lĩnh vực công nghệ

Theo một số tài liệu, như sách Việt Nam Đại Hồng Sử, sau khi thành hôn với Lê Phủ Trần, thánh nhân theo chồng về sống ở xứ Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) rồi ít lâu sau trở về ở với nhau. về quê ngoại ở xứ ái châu (thanh tịnh ngày nay).

Sống cuộc sống mới bằng một cuộc hôn nhân gượng ép nhưng may mắn cho thánh nữ là vợ chồng chị sống hòa thuận, yêu thương nhau, đó là những tháng ngày đẹp nhất trong cuộc đời của một người phụ nữ đầy day dứt, đau khổ.

>

Chỉ một năm sau ngày cưới, tức là năm Kỷ mùi (1259), thánh nhân sinh được một người con trai, đặt tên là Lệ Đồng, tục gọi là Lệ Phu Sướng, rồi lại sinh thêm một người con gái tên Lệ. thị ngọc khê (còn gọi là minh khê).

Vậy là hạnh phúc đã đến với thánh nữ, dù muộn màng nhưng dù sao đó cũng là cái kết hạnh phúc mà cô xứng đáng nhận được sau bao nhiêu buồn đau.

con Lê Tổng Đề Chiêu Thanh, khi trưởng thành được phong Đại Hầu, sau được ban quốc tính (họ vua) đổi niên hiệu là Trần Binh Trọng, danh tướng nổi tiếng trường sinh bất lão. nói. : “Ta thà làm quỷ nước nam còn hơn làm vua phương bắc.”

năm ất dậu (1285), tướng Trần bình quân đánh giặc Mông Cổ trên bãi sa mạc Thiên (thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay), vì quân yếu , nên bị bắt nhưng Ngài không phục, chúng giết Ngài, triều đình để tang, tôn Ngài là Bảo Nghĩa vương.

Ít ai biết rằng Lê Tông hay Trần binh trong cũng là một phi tần của nhà Trần, được vua Trần Thái Tông gả cho con gái là Thụy Bảo công chúa, vợ chồng chỉ sinh được một cô con gái kháu khỉnh. sau bà được tuyển vào cung làm vợ vua Trần Anh Tông và được sắc phong Hoàng hậu (mẹ của hoàng tử Trần Mạnh, tức vua Trần Minh Tông).

Còn người con gái út của Chiêu Thành là Lê Thị Ngọc Khuê, sinh năm Tân dậu (1261), hiệu là minh khê, có tài liệu như Việt sử sách đại hồng chung, tên là Kiều Thụy.

Sử sách và sử sách không cho biết về cuộc đời của bà, chỉ biết bà được phong làm quận chúa Ung Thủy (có thuyết cho là quận chúa Ung Thủy).

Về sau, ngọc khê lấy Trạng nguyên Trần Cô, quê ở xã Phạm Hiển, huyện Thanh Vương, huyện Hạ Hồng, lộ Hải Đông (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Vương, Hải Dương), mất Trạng nguyên khoa bính dần, niên hiệu Bính Thìn thứ 9 (1266) đời Trần Thái Tông, sau làm quan đến chức Tham tri, Bình chương đại học sĩ.

Theo chính sử, thánh nhân (tức Lý Chiêu Hoàng) mất đầu năm âm lịch (1278) tại cố hương Pháp (nay là Đức Sơn, Bắc Ninh), hưởng thọ 60 tuổi, ngày lăng nằm ở phía rừng. thuộc đất định bang, dân gian gọi là lăng.

Rồi từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời, trải qua biết bao biến cố, ông trở thành nhân vật có số phận đặc biệt nhất trong lịch sử Việt Nam với 7 lần đoạt danh hiệu. mặc dù vai trò của ông đối với vận mệnh đất nước khá đen tối: 1. công chúa (nhà Lý), 2. thái tử, 3. hoàng thái hậu, 4. hoàng hậu, 5. công chúa (vườn không nhà trống), 6. nhà sư , 7. .vợ tướng quân.

Tuy chỉ xuất hiện một thời gian ngắn trên chính trường, nhưng Lý chiêu hoàng đã trở thành một nhân vật độc đáo, một đề tài bàn tán trong gần 800 năm qua và sẽ mãi là điều khiến các thế hệ người Việt lưu tâm mãi mãi.

Đọc thêm: Harley Quinn là ai? Tiểu sử và chuyện tình cùng Joker | 35Express

  • thái dung

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *